Các Đảo Ở Nam Thái Bình Dương Là Ai Trong Lịch Sử Việt Nam

Các Đảo Ở Nam Thái Bình Dương Là Ai Trong Lịch Sử Việt Nam

Theo TTXVN, nhiều công trình nghiên cứu các bình gốm và các sản phẩm văn hoá khác trước đây vẫn gợi ý rằng các nền văn hoá polynesi và châu Đại Dương có nguồn gốc từ Đài Loan và từ đó đã phát triển nhanh chóng ra khắp các đảo ở Thái Bình Dương.

Theo TTXVN, nhiều công trình nghiên cứu các bình gốm và các sản phẩm văn hoá khác trước đây vẫn gợi ý rằng các nền văn hoá polynesi và châu Đại Dương có nguồn gốc từ Đài Loan và từ đó đã phát triển nhanh chóng ra khắp các đảo ở Thái Bình Dương.

Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương

Phát biểu này được đưa ra tại thời điểm Washington đang phát triển chính sách “xoay trục” hay “tái cân bằng” tại châu Á - Thái Bình Dương do có những lo ngại về nguy cơ Bắc Kinh mở rộng phạm vi ảnh hưởng bao trùm tới tận các quốc đảo Nam Thái Bình Dương.

Ngoài Australia và New Zealand, Thái Bình Dương tổng cộng có 27 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo các thông tin công khai trên Internet, trong số các đảo quốc Thái Bình Dương, có 3 nước vốn thuộc sự quản lý của Mỹ, 10 nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Ngoài ra, còn có một số nước thuộc Khối thịnh vượng chung Anh, một số nước là lãnh thổ của Anh, Pháp, Mỹ và New Zealand.

10 nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc là Quần đảo Solomon, Kiribati, Samoa, Fiji, Tonga, Vanuatu, Papua New Guinea, quần đảo Cook, Niue và Micronesia.

Từ ngày 20-24/5, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã lần lượt đến thăm Hàn Quốc và Nhật Bản, đồng thời tuyên bố khởi động Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) để mở rộng ảnh hưởng kinh tế của Mỹ.

Ngay sau đó, ngày 24/5, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thông báo Bộ trưởng Vương Nghị sẽ đến thăm các đảo quốc Nam Thái Bình Dương trong 10 ngày.

Trước khi ông Vương Nghị đặt chân đến Nam Thái Bình Dương, tân Ngoại trưởng Australia Penny Wong đã đến thăm Fiji và tuyên bố Australia sẽ triển khai hợp tác chặt chẽ với các đảo quốc Thái Bình Dương mà không kèm theo bất cứ điều kiện nào.

Một số đảo quốc Thái Bình Dương từng kề vai sát cánh với Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, có mối quan hệ lâu dài với Washington. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Trung Quốc đang gia tăng ở khu vực Thái Bình Dương này, nơi có các tuyến giao thông biển và ngư trường quan trọng, thông qua việc ký kết các thỏa thuận an ninh, cung cấp tài chính cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng thuộc Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI).

Ngày 30/5, mặc dù ông Vương Nghị tham dự và đồng chủ trì hội nghị Ngoại trưởng Trung Quốc và các đảo quốc Thái Bình Dương lần thứ 2 ở thủ đô Suva của Fiji, nhưng Trung Quốc không thể cùng 10 nước tham dự hội nghị ký thỏa thuận khu vực bao gồm sự hợp tác giữa các lực lượng cảnh sát, an ninh, thương mại, hàng hải và truyền thông kỹ thuật số như mong muốn.

Một số hãng truyền thông phương Tây miêu tả đây là thất bại của Trung Quốc, trong khi một số tờ báo lại cho rằng kế hoạch thắt chặt quan hệ với các đảo quốc Thái Bình Dương chỉ bị ngưng trệ.

Việc Trung Quốc và Quần đảo Solomon ký thỏa thuận khung hợp tác an ninh vào tháng 4 không những được coi là một thắng lợi ngoại giao quan trọng, mà còn làm dấy lên sự cảnh giác cao độ của Mỹ và Australia. Washington và Canberra lo ngại Trung Quốc có thể triển khai lực lượng quân sự và xây dựng căn cứ quân sự ở Quần đảo Solomon, thậm chí thỏa thuận an ninh Trung Quốc - Solomon còn có thể thúc đẩy thêm nhiều đảo quốc Nam Thái Bình Dương hướng về đại lục.

Mỹ và đồng minh đều đặt căn cứ quân sự ở hai bờ Thái Bình Dương, một khi khu vực xảy ra xung đột thì những căn cứ này có thể phát huy tác dụng. Có phân tích cho rằng nếu Trung Quốc có thể thiết lập căn cứ quân sự ở các đảo quốc Thái Bình Dương thì sẽ giúp nước này nâng cao năng lực đối đầu với Mỹ, đồng thời làm giải vai trò là vị trí chiến lược hội tụ 3 đại dương (Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương) của Australia.

Bên cạnh đó, cũng có nhà phân tích cho rằng do một số đảo quốc Thái Bình Dương kết nối với “chuỗi đảo thứ hai”, nên Trung Quốc tìm cách hợp tác với các đảo quốc Thái Bình Dương để phá vỡ sự phong tỏa của Mỹ ở chuỗi đảo thứ nhất, từ đó chiếm được ưu thế chiến lược tốt hơn ở khu vực Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, các đảo quốc Nam Thái Bình Dương cũng có những cân nhắc lợi ích của riêng mình. Tất cả đều muốn giành được nhiều lợi ích nhất trong cuộc đọ sức Mỹ - Trung. Lấy việc Liên bang Micronesia phản đối ký thỏa thuận hợp tác an ninh với Trung Quốc lần này làm ví dụ, nước này không những có thỏa thuận hợp tác kinh tế với Trung Quốc, mà còn có thỏa thuận quốc phòng với Mỹ.

Trong một lá thư gửi 21 nhà lãnh đạo các đảo quốc Thái Bình Dương, Tổng thống Liên bang Micronesia David Panuelo cho biết không tán thành thỏa thuận do Trung Quốc đề xuất, đồng thời cho rằng Bắc Kinh có ý đồ kiểm soát Nam Thái Bình Dương, đe dọa sự ổn định của khu vực, có thể dẫn đến chiến tranh lạnh mới giữa Trung Quốc và phương Tây.

Trong thư, ông cũng nói rằng nếu để Trung Quốc kiểm soát cơ sở hạ tầng thông tin, lãnh thổ biển và an ninh biển của các quốc gia Thái Bình Dương thì sẽ làm gia tăng khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa Trung Quốc với Mỹ và các nước đồng minh. Và các đảo quốc Thái Bình Dương sẽ bị vạ lây.

Ông còn quan ngại thỏa thuận thương mại tự do sẽ cho phép Trung Quốc kiểm soát nghề cá và tài nguyên của khu vực, đồng thời cho rằng một khi thỏa thuận được ký kết, thì kịch bản tốt nhất đối với Thái Bình Dương là dẫn đến một cuộc chiến tranh lạnh mới, trong khi kịch bản tệ nhất có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới.

Tương tự, Fiji - nước có quan hệ tốt với Trung Quốc - cũng tìm kiếm sự cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc. Ngày 26/5, Fiji tuyên bố tham gia IPEF do Mỹ khởi xướng, trở thành một trong 14 thành viên sáng lập và là đảo quốc Thái Bình Dương đầu tiên tham gia. Trong thời gian Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đến thăm Fiji, hai nước đã ký 3 thỏa thuận kinh tế.

Nhiều nhà quan sát cho rằng tình hình ở Nam Thái Bình Dương đang cho thấy sự suy yếu của Mỹ. Mặc dù Washington tìm cách tăng cường đầu tư, nhưng vẫn thụt lùi khá xa. Sandra Talter, Chủ nhiệm khoa chính quyền và các vấn đề quốc tế thuộc Đại học Nam Thái Bình Dương ở thủ đô Suva, Fiji, cho rằng có rất nhiều cuộc thảo luận, nhưng lại rất ít nội dung mang tính thực chất. Toàn bộ khu vực Thái Bình Dương vẫn đang sử dụng nhiều sân bay, bệnh viện do Mỹ và đồng minh xây dựng trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai.

Mặc dù nhiều đảo quốc Thái Bình Dương không muốn bị cuốn vào cuộc cạnh tranh nước lớn, nhưng điều họ thực sự cần, cũng là điều mà Trung Quốc dường như có thể cung cấp hiện nay, chính là tiếp tục tham gia và xây dựng.

Lần này, mặc dù Trung Quốc chưa đạt được thỏa thuận mới với các nước có quan hệ ngoại giao, nhưng không loại trừ khả năng Bắc Kinh vẫn sẽ thúc đẩy nhiều thỏa thuận song phương mang tính đột phá, trên cơ sở lĩnh vực kinh tế từng bước tìm kiếm bước đột phá trên lĩnh vực an ninh.

Mặt khác, các động thái gần đây của Trung Quốc đã hối thúc Mỹ quay trở lại các đảo quốc Thái Bình Dương, do đó cuộc tranh giành ảnh hưởng không khói súng giữa Mỹ và Trung Quốc ở Thái Bình Dương chắc chắn sẽ ngày càng gay gắt.

* Kỳ tới: Giải pháp tái thiết quan hệ Australia - Trung Quốc

Sau chuyến đi gặt hái thành công của phái đoàn thương mại, do Bộ trưởng Thương mại quốc tế Mary Ng dẫn đầu, tới Việt Nam và Malaysia, Canada đang tích cực hướng tới khu vực này bằng những hoạt động để chuẩn bị cho các doanh nghiệp nước này có thể làm ăn kinh doanh thành công ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Sự kiện “Cửa ngõ đi vào Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” lần này được Phòng thương mại Canada và Cơ quan phát triển xuất khẩu Canada phối hợp tổ chức, có vai trò như một diễn đàn nhằm giúp các doanh nghiệp Canada hiểu biết sâu hơn về triển vọng kinh doanh cũng như các giải pháp cần thiết để có thể đạt thành công tại khu vực, nơi đang được đánh giá là năng động và phát triển cực kỳ nhanh chóng.

Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được coi là một thị trường hấp dẫn bởi có tới 40 quốc gia, với hạ tầng phát triển, hoạt động kinh tế trị giá gần 50 tỷ USD và tầng lớp trung lưu đang có nhu cầu ngày càng tăng. Trong khi đó, Canada lại có thể mạnh về nông sản thực phẩm, công nghệ sạch và sản xuất hiện đại có thể đáp ứng các yêu cầu của khu vực này.

Phó chủ tịch phụ trách chiến lược và hợp tác toàn cầu Catherine Fortin LeFaivre của Phòng thương mại Canada cho phóng viên TTXVN tại Canada biết khi đề cập tới Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là chúng tôi muốn nói đến 40 quốc gia đã được Chính phủ Canada xác định thông qua chiến lược của họ tại khu vực này.

Bà LeFaivre đánh giá sự kiện ở Montreal ngày 6/5 là cơ hội để các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về những cơ hội tại đó thông qua chuyên gia từ các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu và những người từng có kinh nghiệm thực tiễn. Nó sẽ giúp các doanh nghiệp có thêm định hướng nhằm cân nhắc việc mở rộng kinh doanh tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Canada hiện đang đẩy mạnh việc triển khai Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mà nước này đã hào phóng đầu tư khoảng 2 tỷ USD để tập trung vào lĩnh vực thương mại nhằm xây dựng thêm mối liên kết và củng cố sự hiện diện của Canada tại khu vực. Trong chiến lược này, ASEAN được Canada coi là có vai trò trung tâm và hai bên đã có sự phát triển đảng kể trong mọi mặt của mối quan hệ.

Tháng 9 năm ngoái các nhà lãnh đạo Canada và ASEAN, đại diện cho hơn 600 triệu người tiêu dùng, đã tuyên bố việc nâng cấp quan hệ lên tầm đối tác chiến lược. Điều này được coi là sẽ mang lại những cam kết và những khoản đầu tư mới mà Canada đang triển khai để biến nó trở nên tích cực hơn đối với khu vực, với ASEAN là trung tâm của nỗ lực đó.

Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Quỹ châu Á - Thái Bình Dương Canada Jeff Nankivell nhận xét một trong những yếu tố của Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là tổ chức các chuyến đi thực tế cho phái đoàn thương mại Canada, nơi tập hợp cả đại diện chính phủ và doanh nghiệp. Gần đây phái đoàn thương mại Canada đã tới Malaysia, Việt Nam và dự kiến sẽ tới Indonesia cùng Philippines vào cuối năm nay.

Theo ông Nankivell, Canada cũng đang mở các văn phòng để triển khai nhiệm vụ như của Bộ Nông nghiệp tại Philippines, nơi đóng vai trò là trung tâm về các sản phẩm nông nghiệp và nông sản thực phẩm tại khu vực. Việt Nam cũng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động này vì đây là nơi có tiềm năng lớn nhất trong việc mở rộng các mối quan hệ.

Dựa trên văn phòng khu vực, hai bên sẽ triển khai được nhiều hơn các lĩnh vực hợp tác về thương mại đầu tư, đổi mới sáng tạo, công nghệ hiện đại, y tế và môi trường. Ngoài Philippines, Canada còn có Văn phòng thương mại Đông Nam Á tại Singapore, Văn phòng Đổi mới sáng tạo sắp mở tại Việt Nam, đồng thời đang triển khai đàm phán hiệp định thương mại tự do với Indonesia nói riêng và toàn thể ASEAN nói chung.

Theo Olivia Lee, Trưởng đại diện Đông Nam Á của Cơ quan phát triển xuất khẩu Canada, khu vực này đang mang lại tiềm năng to lớn cho các công ty Canada, đặc biệt trong ba lĩnh vực tăng trưởng là cơ sở hạ tầng, nông sản thực phẩm và các lĩnh vực sản xuất tiên tiến.

Một trong những điều chính mà cơ quan này nhận thấy ở Việt Nam hiện nay là quá trình chuyển đổi năng lượng, gồm việc tăng cường phát triển năng lượng gió và năng lượng mặt trời. Có rất nhiều điều đang diễn ra ở Việt Nam và đất nước này được coi là "điểm nóng" tiếp theo trên toàn cầu.

Ông Nankivell cho biết: "Tôi thường xuyên nghe thấy có mức độ quan tâm rất cao đến việc phát triển và mở rộng các mối quan hệ với Việt Nam. Vì vậy tôi cho rằng sẽ có rất nhiều tiềm năng. Các trường đại học và cao đẳng đang tìm cách thu hút nhiều sinh viên đến từ Việt Nam. Các doanh nghiệp Canada đang tìm cách đầu tư vào Việt Nam và cũng muốn thu hút đầu tư của Việt Nam trong một lĩnh vực mới nào đó".

Ông này nói rằng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông sản thực phẩm, tiềm năng cũng đã được xác định cho các doanh nghiệp Canada và ngược lại. Với kinh nghiệm làm việc hơn 30 năm trong lĩnh vực quan hệ Canada - châu Á, tôi cho rằng hai bên đang có những điều kiện tốt nhất trong mối quan hệ về mọi mặt.

Giám đốc Liên đoàn phòng thương mại Quebec Florent Favrel chia sẻ với phóng viên: "Đây là một sự kiện vô cùng hữu ích. Chúng tôi đã thu được rất nhiều thông tin về tiềm năng của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, đặc biệt là Việt Nam".

Ông Favrel khẳng định Quebec luôn coi Việt Nam là cửa ngõ để vào khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, một khu vực phát triển nhanh và đầy năng động, nhấn mạnh rằng với vai trò của mình, Việt Nam là một trong những cánh cửa đầu tiên mà doanh nghiệp Quebec nên mở ra vì những tiềm năng to lớn mà nơi đây có thể mang lại.