- Mấu chốt của việc nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ là việc các nghiên cứu sinh xác định học tiến sĩ để làm gì?
- Mấu chốt của việc nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ là việc các nghiên cứu sinh xác định học tiến sĩ để làm gì?
Những sự đột phá mới mẻ trong khoa học là một điều không thể thiếu ở xã hội hiện tại. Đây luôn là niềm tự hào của các nhà khoa nghiên cứu khoa học và đồng thời cũng là một trách nhiệm lớn lao.
Đã có những nghiên cứu khoa học bỏ quên đi giá trị cơ bản của khoa học, làm cho niềm tin vào khoa học sẽ bị sụt giảm. Nếu tình trạng này kéo dài, hệ lụy lên xã hội sẽ không thể lường được. Các nhà khoa học cần phải có những phản ứng hợp lý với các trường hợp như vậy, khẳng định lại hình thức nghiên cứu khoa học lý tưởng và kiến thức cần có được với tư cách là một nhà khoa học chân chính.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải coi trọng trí tuệ của các nhà khoa học và thực hiện nghiên cứu tự do trong môi trường thoải mái. Điều này rất quan trọng trong quá trình phát triển của khoa học.
Xem thêm: Khái niệm master là gì và sự khác biệt giữa các loại bằng thạc sĩ
Bạn cũng có thể chọn các chương trình tiến sĩ được xây dựng sẵn. Một chương trình như này sẽ bao gồm một nhóm học viên tiến sĩ được hướng dẫn bởi một nhóm giám sát viên. Có khoảng 600 chương trình như vậy ở Đức, thường là dành cho các học viên quốc tế, và được giảng dạy bằng tiếng Anh. Các chương trình này khác với các chương trình tiến sĩ cá nhân ở chỗ đề xuất nghiên cứu của sinh viên phải phù hợp với các chương trình tiến sĩ hiện có, trong khi các chương trình tiến sĩ cá nhân có thể tự do hơn để phù hợp với dự án nghiên cứu cá nhân. Bạn cũng sẽ cần phải tham dự các bài giảng và hội thảo, và thông thường sẽ có một người cố vấn.
Sau khi Liên Xô tan rã, Cộng hòa Liên bang Nga không phân biệt phó tiến sĩ và tiến sĩ nữa mà gọi chung là tiến sĩ. Ở Pháp cũng theo hình thức như vậy.
Ở Việt Nam trước năm 1990, nước ta theo quy chế của Liên Xô cũ. Sau đó, Chính phủ ký quyết định chuyển tên gọi phó tiến sĩ thành tiến sĩ mà không phải là thạc sĩ. (Thạc sĩ đào tạo 2 năm, Phó tiến sĩ đào tạo 4 năm)
Người ta thêm từ “khoa học” phía sau từ “Tiến sĩ” nhằm mục đích phân biệt một cách rõ ràng hơn, không để những tiến sĩ cũ bị cào bằng.
Vậy tiến sĩ khoa học sẽ được đánh giá cao hơn bằng tiến sĩ thông thường!
Trên đây là những thông tin bổ ích về học hàm tiến sĩ khoa học. Hi vọng những kiến thức trên sẽ giúp bạn có một góc nhìn đúng đắn về thuật ngữ này và thành công trên con đường học tập của mình!
Những nhà khoa học tại Nga nếu muốn bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học phải có học vị tiến sĩ và đã tham gia nghiên cứu khoa học sau khi có học vị tiến sĩ ít nhất 3 năm trở lên. Theo định nghĩa của Nga: Người đạt được học vị tiến sĩ khoa học là người có khả năng mở ra một hướng nghiên cứu mới trong ngành khoa học. Trong khi đó, người đạt học vị tiến sĩ lại là người có đủ khả năng tiến hành nghiên cứu khoa học một cách độc lập.
Tiến sĩ khoa học tại đây ra đời vào năm 1808 và không còn dùng nữa kể từ sau cải cách vào năm 1974 khi Pháp thống nhất lại học vị tiến sĩ của các ngành khác nhau thành 1 học vị duy nhất đó là tiến sĩ để tránh bị nhầm lẫn.
- Tại Ireland và các nước thuộc Anh:
Tại Ireland và một số nước thuộc Khối thịnh vượng chung Anh như Anh và Ấn Độ, tiến sĩ khoa học (tiếng Anh: Doctor of Science) nay chỉ còn là một danh hiệu mang tính chất tôn vinh, dành cho các cá nhân có đóng góp đặc biệt cho một ngành nào đó, không phải dành cho các thành tựu hàn lâm cụ thể như trước.
Tại Bắc Mỹ, ở đây không hề có sự phân biệt giữa tiến sĩ khoa học (Doctor of Science) với tiến sĩ (Doctor of Philosophy, Ph.D.).
Đây là loại chương trình truyền thống và phổ biến nhất. Đối với loại chương trình tiến sĩ này, bạn sẽ làm luận án hoặc luận văn của mình dưới sự giám sát của một giáo sư, nhưng chủ yếu là bạn sẽ làm việc độc lập. Thời gian hoàn thành các chương trình như này sẽ khác nhau, thường kéo dài từ ba đến năm năm. Đây là 1 sự lựa chọn có tính linh hoạt cao, nhưng nó cũng đồng thời đòi hỏi sự chủ động và trách nhiệm cá nhân. Để lấy được bằng tiến sĩ khi tham gia chương trình này, bạn không nhất thiết phải tham gia nghiên cứu tại một trường đại học mà có thể hoàn thành một dự án tại một tổ chức nghiên cứu không thuộc trường đại học hoặc tại một công ty của Đức trong lĩnh vực tương đương.
Hầu hết các học viên tiến sĩ làm việc cho một dự án nghiên cứu được trả tiền hoặc nhận học bổng. Nếu bạn muốn đăng ký học bổng để hỗ trợ phần nào các khoản chi phí của mình, bạn có thể tìm thấy những dự án như này thông qua trang web chính thức của trường đại học mà bạn muốn theo học. Bạn cũng có thể tham khảo danh sách học bổng du học Đức, bao gồm cả các học bổng cho chương trình tiến sĩ. Một số trang web khác mà bạn có thể tìm học bổng bao gồm www2.daad.de và www.stipendienlotse.de (trang web bằng tiếng Đức).
Bạn cũng có thể cân nhắc làm một công việc part-time để kiếm thêm, công việc này có thể là ở trong trường đại học hoặc ở ngoài - nhưng hãy lưu ý xem có quy định nào liên quan không nhé. Nếu bạn là sinh viên chính quy từ các nước trong khối EU hoặc EEA (không bao gồm sinh viên đến từ Bulgaria và Romania), bạn sẽ không bị giới hạn về địa điểm hay thời gian làm việc. Nếu bạn là sinh viên chính quy từ quốc gia ngoài khối EU, bạn sẽ bị giới hạn làm việc tối đa là 120 ngày mỗi năm trừ phi bạn xin giấy phép lao động. Khi làm việc tại Đức, bạn nên liên hệ với văn phòng việc làm để tìm hiểu về các điều kiện pháp lý.
Yêu cầu đầu vào sẽ khác nhau đối với các trường đại học và các chương trình tiến sĩ, nhưng nhìn chung bạn sẽ cần phải có bằng tương đương với bằng thạc sĩ của Đức từ loại giỏi trở lên. Ngoài ra, các học viên quốc tế có bằng cử nhân đạt loại xuất sắc có thể được nhận làm nghiên cứu sinh tiến sĩ và trải qua một chương trình cấp tốc. Tuy nhiên, các sinh viên này phải làm bài thi đầu vào và có thể tham gia một cuộc phỏng vấn.
Nếu bạn đang học tiến sĩ bằng tiếng Anh và đây không phải là tiếng mẹ để thi bạn sẽ cần chứng minh trình độ tiếng Anh của mình bằng một bài kiểm tra tiếng Anh như IELTS hoặc TOEFL. Nếu bạn đang học hoặc nộp nghiên cứu Tiến sĩ bằng tiếng Đức, bạn có thể phải chứng minh trình độ ngôn ngữ của mình qua một bài kiểm tra như DSH hoặc TestDaF. Cách để đăng ký học tiến sĩ ở Đức?
Không hề có trung tâm tuyển sinh hoặc văn phòng tuyển chọn học viên tiến sĩ ở Đức, và quy trình nộp đơn đăng ký học sẽ khác nhau tùy thuộc vào việc bạn chọn loại chương trình tiến sĩ truyền thống (cá nhân) hay chương trình tiến sĩ được xây dựng sẵn. Nếu theo học chương trình tiến sĩ được xây dựng sẵn, bạn chỉ cần trực tiếp nộp đơn vào trường đại học bạn đã chọn.
Nếu chọn theo chương trình tiến sĩ cá nhân, trước tiên bạn sẽ cần phải tìm một giáo sư phù hợp sẵn sàng làm người giám sát của bạn. Bạn có thể tìm được một giáo sư như này qua các địa chỉ liên hệ từ trường đại học trước đây của bạn hoặc bằng cách tìm kiếm các viện và trung tâm nghiên cứu hoặc các nhóm liên quan đến lĩnh vực bạn quan tâm. Các nền tảng tìm kiếm trực tuyến sau đây có thể giúp bạn tìm được người giám sát phù hợp:
Khi mà bạn đã tìm được người giám sát, bộ phận chịu trách nhiệm hoặc ủy ban tiến sĩ phải xác nhận rằng bạn là ứng viên tiến sĩ. Thường thì bạn phải hoàn thành một đơn đăng ký bao gồm lời trình bày của người giám sát tiến sĩ của bạn, bản sao các chứng chỉ được chứng thực, bằng chứng công nhận trình độ của bạn từ văn phòng khoa, tài liệu tham khảo học thuật và bằng đại học cho phép bạn tham gia nghiên cứu tiến sĩ. Đơn đăng ký của bạn cũng có thể bao gồm kết quả bài kiểm tra tiếng Anh hoặc tiếng Đức (nếu có). Văn phòng Sinh viên của trường đại học bạn đã chọn sẽ xem xét các tài liệu này và cấp phép cho bạn bắt đầu nghiên cứu tiến sĩ.
Bước tiếp theo là đăng ký tại trường đại học. Để đủ điều kiện đăng ký, trước tiên trường đại học phải chấp nhận đơn xin nhập học tiến sĩ của bạn. Tuy nhiên, không phải tất cả các khoa đều yêu cầu các học viên tiến sĩ đăng ký học chính thức. Bạn có thể tìm thấy các yêu cầu liên quan đến việc đăng ký trên trang web chính thức của trường đại học.
Bạn cũng phải đảm bảo bằng cấp sau đại học của bạn được công nhận, xin giấy phép cư trú và / hoặc thị thực sinh viên, và đảm bảo bạn có đủ nguồn lực tài chính trong quãng thời gian lưu trú. Tôi có cần thị thực sinh viên không?
Điều này sẽ phụ thuộc vào việc bạn đến từ quốc gia nào. Nhiều người sẽ không cần thị thực sinh viên, nhưng lại cần giấy phép cư trú. Bạn có thể đọc thêm về cách xin thị thực sinh viên ở Đức tại đây hoặc tìm tổng quan về các quốc gia để xem bạn có cần thị thực sinh viên hay không trên trang web của Văn phòng Liên bang nước ngoài. Tôi có cần phải biết tiếng Đức không?
Không cần nhé - tuy nhiên, chúng tôi khuyên bạn nên học tiếng Đức cơ bản để thuận tiện hơn trong giao tiếp, đặc biệt là khi bạn làm việc trong hoặc sau khi học tại quốc gia này. Nếu bạn theo học chương trình tiến sĩ cá nhân, thì có thể luận án tiến sĩ của bạn sẽ được viết bằng tiếng Anh, còn nếu đang học chương trình tiến sĩ được xây dựng sẵn thì khả năng cao bạn cũng sẽ hoàn thành bằng tiến sĩ bằng ngôn ngữ này.
Quang Vinh - Theo TopUniversities
Nhiều người vẫn nói kết quả không quan trọng bằng quá trình, vậy với những tân tiến sĩ theo nghiên cứu học thuật nhưng đứt gánh và chuyển hướng sang ngành khác thì con đường của họ như nào ? Mức lương của vị trí nghiên cứu sinh sau tiến sĩ nhìn chung cũng khá thấp. Theo Glassdoor, lương trung bình cho vị trí nghiên cứu sinh sau tiến sĩ ở Mỹ là 60000 USD/năm, tất nhiên đây là mức trung bình, các ngành khác nhau có thể sẽ khác. Để so sánh, cũng theo Glassdoor, vị trí kỹ sư y sinh 4-6 năm kinh nghiệm ở Mỹ (1 người học xong thạc sĩ và đi làm 4-6 năm sẽ tương đương thời gian 1 người học tiến sĩ) có mức lương trung bình 83000 USD/năm. Ngoài ra, nếu sau 4-6 năm, nếu lên được vị trí kỳ cựu (senior, 4-6 năm thì hoàn toàn có khả năng lên) thì mức lương trung bình là 100000 USD/năm, gần gấp 2 vị trí nghiên cứu sinh sau tiến sĩ với thời gian làm việc tương đương. Do đó có thể thấy, việc làm việc ở trong môi trường học thuật không phải nơi để kiếm tiền. Hơn nữa, quá trình làm ở vị trí nghiên cứu sinh sau tiến sĩ này sẽ gây ảnh hưởng tới mức lương ở các công việc ngoài học thuật sau này. Hình 3 dưới đây là 1 mô phỏng về mức lương của tân tiến sĩ và tân tiến sĩ đã trải qua vị trí nghiên cứu sinh sau tiến sĩ (ex-postdoc) sau 15 năm ở các ngành ngoài học thuật. Dù ngành nào đi nữa, cần đến khoảng 15 năm để mức lương của 1 nghiên cứu sinh sau tiến sĩ đổi ngành có thể đuổi kịp 1 tân tiến sĩ bắt đầu đi làm trong ngành luôn. Điều này có thể giải thích bằng khó khăn của việc chuyển đổi ngành nhìn chung và đổi ngành từ học thuật sang các ngành khác nói riêng. Nhiều nhà tuyển dụng cho rằng kinh nghiệm học thuật là quá hàn lâm hoặc chuyên sâu, không phù hợp với môi trường làm việc khác. Không chỉ nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, với nhiều tân tiến sĩ khi tìm việc, nhiều nhà tuyển dụng không coi kinh nghiệm làm việc của tân tiến sĩ trong phòng thí nghiệm là kinh nghiệm, mà chỉ coi tiến sĩ là 1 tấm bằng. Mặc dù thời gian học tiến sĩ (và làm nghiên cứu sinh sau tiến sĩ) bao gồm nhiều kỹ năng, hoạt động khác không chỉ là làm các công việc kỹ thuật, những kỹ năng này thường bị bỏ qua trong quá trình tuyển dụng, một phần do nhà tuyển dụng và một phần do chính các tân tiến sĩ không nhận ra và làm nổi bật những kỹ năng đó trong quá trình xin việc.
Cláudia S. Sarrico là giáo sư về quản lý tại Khoa Kinh tế và Quản lý, Đại học Minho và tại CIPES (Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Giáo dục Đại học), Bồ Đào Nha. Email: [email protected].
Tóm tắt: Ngày càng nhiều người có trình độ tiến sĩ. Sự tăng trưởng này đang được thúc đẩy bởi chính sách của chính phủ, những thay đổi trong giới hàn lâm, nhu cầu có nhiều tiến sĩ nghiên cứu hơn, chủ nghĩa bằng cấp và việc nhập khẩu tài năng quốc tế. Trong sự nghiệp học thuật truyền thống đã không còn đủ chỗ cho tất cả những người có bằng tiến sĩ. Nhiều người trở thành những “permadoc” (tiến sĩ vĩnh viễn), mòn mỏi với những hợp đồng giảng dạy tạm thời và thu nhập bấp bênh; những người khác phải chuyển sang công việc bên ngoài giới hàn lâm. Đào tạo tiến sĩ cần thay đổi để chuẩn bị cho những người có bằng tiến sĩ sẵn sàng chấp nhận sự nghiệp đa dạng hơn.
Số người có trình độ tiến sĩ đang tăng nhanh ở những nền kinh tế có thu nhập cao, và gần đây, ở cả những nền kinh tế thu nhập thấp hơn. Vào năm 2019, tỷ lệ trung bình của những người từ 25 đến 64 tuổi có bằng tiến sĩ trên toàn OECD là khoảng 1%. Nếu xu hướng này tiếp tục, 2,3% tổng số thanh niên ngày nay sẽ theo học chương trình tiến sĩ vào một thời điểm nào đó trong đời. Vì sao có sự mở rộng này, và bằng tiến sĩ đem lại lợi ích gì cho ngày nay?
Số người có bằng tiến sĩ đang tăng nhanh
Mối bận tâm về số lượng người có bằng tiến sĩ bắt đầu từ những năm 1980 ở Hoa Kỳ, nhưng điều đó không làm giảm tốc độ tăng trưởng. Sự mở rộng tiếp tục đặt ra câu hỏi về lợi ích của việc đầu tư vào bằng tiến sĩ đối với các cá nhân và với xã hội.
Việc mở rộng đào tạo bậc tiến sĩ bắt nguồn từ việc giáo dục đại học chuyển đổi từ ưu tú sang đại chúng – quá trình này đã được Martin Trow bàn đến vào những năm 1970, và sự phổ biến của những hệ thống giáo dục đại học có tỷ lệ tham gia cao trên toàn cầu.
Việc mở rộng giáo dục tiến sĩ, với mục đích chính là đào tạo những người thực hiện công việc nghiên cứu, là một hiện tượng đã có từ lâu ở các nước OECD, là nơi – theo truyền thống- tập trung các hoạt động nghiên cứu; nhưng ngày nay năng lực nghiên cứu đang lan rộng ra nhiều quốc gia hơn, với sự trỗi dậy đáng chú ý của Trung Quốc.
Những con số biết nói: theo Ngân hàng Thế giới, năm 2020, chỉ 36 quốc gia có số người đạt trình độ tiến sĩ vượt trên 0,6% dân số, trong số đó chỉ một vài nước bên ngoài OECD. Trong OECD, trong vòng hai thập kỷ trước năm 2017, số lượng bằng tiến sĩ mới được cấp tăng gần gấp đôi (từ 140.000 lên 276.800). Để so sánh, tổng chi tiêu trong nước cho R&D chỉ tăng 18% trong giai đoạn 2000–2020. Điều này có nghĩa là nhiều người có học vị tiến sĩ sẽ không được tham gia vào các hoạt động nghiên cứu.
Tốc độ tăng trưởng trình độ tiến sĩ nhanh hơn nhiều so với trình độ đại học nói chung: từ năm 2014 đến 2019, trong OECD, giáo dục tiến sĩ tăng 25% (0,93% đến 1,16%), trong khi giáo dục đại học tăng 12,7% (33,65% đến 37,90%).
Vì sao có quá nhiều bằng tiến sĩ được cấp?
Các chính phủ đã và đang khuyến khích đào tạo thêm nhiều tiến sĩ với hy vọng phát triển nền kinh tế tri thức để thúc đẩy tăng trưởng và thịnh vượng. Nguồn tài trợ nghiên cứu được cấp trực tiếp cho các trường để đào tạo ra nhiều tiến sĩ hơn, nhiều vị trí sau tiến sĩ hơn; và gián tiếp cho các ấn phẩm và trích dẫn mà họ (các tiến sĩ) là công cụ sản xuất. Hầu hết các các quỹ nghiên cứu bổ sung là dành cho những dự án có thời hạn cố định sử dụng các nhà nghiên cứu sau tiến sĩ theo các hợp đồng có thời hạn. Việc mở rộng đào tạo tiến sĩ đảm bảo nguồn cung liên tục cho những vị trí sau tiến sĩ này.
Nguồn tài trợ nghiên cứu sẵn có ngày càng tăng cũng tạo ra nhu cầu theo đuổi sự nghiệp học thuật ở những sinh viên tốt nghiệp đại học, đặc biệt những người có “sở thích khoa học”. Trong một số lĩnh vực, những người có bằng tiến sĩ này cũng được đánh giá cao cả ở bên ngoài giới hàn lâm, bởi những người sử dụng lao động đánh giá cao năng lực kỹ thuật và chuyển giao của họ. Có thể thấy điều đó trong các hệ sinh thái khoa học, nơi có sự hợp tác giữa các trường đại học và thế giới bên ngoài, và là nơi mà cường độ công nghệ của các doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển ở mức độ cao.
Một số cá nhân cũng có thể sử dụng bằng tiến sĩ để trở nên nổi bật trong thị trường sinh viên tốt nghiệp, trong những hệ thống giáo dục đại học có sự tham gia cao. Chủ nghĩa bằng cấp này khá phổ biến trong những lĩnh vực chuyên môn như kinh doanh, quản lý hành chính công và y tế, và nó thiên về việc nâng cao địa vị của ai đó hơn là nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Có thể cho rằng, một số “bằng tiến sĩ chuyên nghiệp – professional doctorates” này không phù hợp với định nghĩa truyền thống và được quốc tế chấp nhận về bằng tiến sĩ phải là kết quả của công việc nghiên cứu độc lập từ đầu. Trong báo cáo Khảo sát về Tiến sĩ, Tổ chức Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ đã sử dụng một định nghĩa về “tiến sĩ nghiên cứu – research doctorate” chặt chẽ hơn so với Hệ thống Dữ liệu về Giáo dục sau Trung học Tích hợp, và chỉ một số ít các EdD (tiến sĩ giáo dục – doctor in education) và DBA (tiến sĩ quản trị kinh doanh – doctor of business administration) phù hợp với định nghĩa này.
Một ví dụ cực đoan khác về chủ nghĩa bằng cấp được minh họa bởi trường hợp một số nhân vật tiếng tăm, thường là các chính trị gia, bị tước bằng tiến sĩ vì đạo văn. Điều đó cho thấy rằng theo đuổi tri thức không phải là mục tiêu của họ. Thay vào đó, họ sử dụng bằng tiến sĩ để nâng cao sự nghiệp và địa vị xã hội của mình.
Việc nhập khẩu nhân tài là một động lực chính khác khiến đào tạo tiến sĩ mở rộng. Hơn một phần năm nghiên cứu sinh tiến sĩ trong OECD là sinh viên quốc tế (so với chỉ 4% ở trình độ cử nhân). Ở hầu hết các quốc gia, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ chung ở bậc đào tạo này để thu hút những tài năng nước ngoài tốt nhất, kể cả từ bên ngoài thế giới nói tiếng Anh. Nhiều quốc gia dựa vào những người nhập cư này để nuôi hệ thống nghiên cứu của họ.
Mặc dù nhiều người cố gắng, nhưng hầu hết những người có bằng tiến sĩ không có cơ hội tham gia vào công việc học thuật truyền thống, mà trở thành những “permadoc” trong một thời gian dài.
Điều gì xảy ra với những người có bằng tiến sĩ sau khi tốt nghiệp?
Mặc dù nhiều người cố gắng, nhưng hầu hết những người có bằng tiến sĩ không có cơ hội tham gia vào công việc học thuật truyền thống, mà trở thành những “permadoc” trong một thời gian dài, nghĩa là chấp nhận làm việc theo những hợp đồng giảng dạy có thời hạn nối tiếp nhau trước khi chuyển sang một công việc không thuộc giới hàn lâm, một số tham gia vào nghiên cứu, còn hầu hết là những hoạt động phi nghiên cứu.
Sự bất an vẫn luôn là đặc điểm của giai đoạn đầu trong sự nghiệp học thuật, nhưng với sự gia tăng số lượng những người có bằng tiến sĩ, những nhóm tiến sĩ trẻ hơn khó thành công hơn trong quá trình chuyển đổi sang hợp đồng không xác định thời hạn trong giới hàn lâm. Những người đó cần sẵn sàng di chuyển nhiều về mặt địa lý và tự tin, dành nhiều năng lượng cho nghiên cứu và kết nối mạng, đồng thời chuẩn bị để chấp nhận một thời gian dài bấp bênh.
Sự bấp bênh đặt ra những vấn đề nghiêm trọng về công bằng, đa dạng và hòa nhập, vì những người có xuất thân đặc quyền nhiều khả năng không bị điều đó cản trở. Đối với phụ nữ, hiện nay họ ngang bằng với nam giới trong hầu hết các lĩnh vực đào tạo tiến sĩ. Nhưng họ vẫn có ít đại diện ở những vị trí lãnh đạo, ở những cấp bậc cao hơn của sự nghiệp học thuật và trong những lĩnh vực mang lại cơ hội tốt hơn ở bên ngoài giới hàn lâm, chẳng hạn như kỹ thuật. Dịch chuyển quốc tế rất cần thiết cho sự nghiệp học thuật là một trở ngại khác mà phụ nữ phải đối mặt, đặc biệt với những người có con.
Mối đe dọa đối với giới hàn lâm là nó không còn sức thu hút và giữ chân những người tài năng nhất, vì những công việc bên ngoài học thuật cung cấp những hợp đồng vô thời hạn nhanh hơn, cũng như thu nhập và triển vọng tốt hơn cho sự phát triển nghề nghiệp. Và mặc dù phần thưởng tinh thần trong sự nghiệp học thuật được coi là tốt hơn, những người có bằng tiến sĩ trong những công việc khác có xu hướng hài lòng với vị thế của họ. Các trường đại học/học viện phải cung cấp điều kiện làm việc tốt hơn, nếu không chất lượng của khoa học sẽ bị ảnh hưởng. Đã có những lời đồn đại rằng, trong một số lĩnh vực, những vị trí sau tiến sĩ (postdoc) đang trở nên khan hiếm ứng viên.
Hơn nữa, nếu đào tạo tiến sĩ tiếp tục với tốc độ vượt quá nhu cầu của sự nghiệp hàn lâm, thì cần chuẩn bị tốt hơn cho các ứng viên trước sự đa dạng của các lựa chọn nghề nghiệp trong giáo dục đại học, kinh doanh, chính phủ, khu vực phi lợi nhuận tư nhân và công việc tự do.
Điều này có ý nghĩa gì đối với đào tạo tiến sĩ?
Sự phát triển của giáo dục tiến sĩ đã tạo ra những chương trình đào tạo chính quy, có cấu trúc và được kiểm soát hơn. Nó cũng mang đến những cách tiếp cận đa dạng hơn, tạo sự cân bằng giữa đào tạo tiến sĩ nghiên cứu truyền thống và nhu cầu đào tạo tiến sĩ cho những công việc sản xuất bên ngoài giới hàn lâm.
Mối quan tâm về giá trị của việc đào tạo tiến sĩ cho những công việc bên ngoài giới hàn lâm – đã trở nên phổ biến ở tất cả các ngành học. Những chương trình hợp tác đào tạo tiến sĩ mới trong môi trường sản xuất đã xuất hiện trong các cơ sở công lập và tư thục. Những chương trình này có cùng tư cách với chương trình đào tạo tiến sĩ truyền thống, vẫn được coi là đào tạo “tiến sĩ nghiên cứu”, nhưng theo đuổi mục tiêu ứng dụng hơn là kiến thức lý thuyết. Chúng đặt ra những yêu cầu mới đối với cả hai bên, với hai văn hóa khác nhau và những ưu tiên khác nhau. Chúng cũng đặt ra câu hỏi về tính toàn vẹn và tự do học thuật trong thỏa thuận hợp tác, là những vấn đề cần được giải quyết.
Đối tượng đào tạo tiến sĩ cũng đa dạng hơn: Có những người không tiếp tục những nghiên cứu trước đây, lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm chuyên môn. Điều này có nghĩa là một mô hình đào tạo tiến sĩ duy nhất không còn phù hợp với mục đích và cần có những chương trình đào tạo đa dạng hơn.
Giáo dục tiến sĩ không những cần đào tạo sinh viên tốt nghiệp cho những công việc ngoài khu vực hàn lâm, mà còn cho những yêu cầu rộng hơn của nghề nghiệp học thuật, chẳng hạn như nghiên cứu, giáo dục, tham gia xã hội, và những nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý, tức là sự nghiệp đa dạng trong và ngoài giới hàn lâm.