Cần Thơ Ơi Đường Nông Thôn Khu Vực Tân Bình

Cần Thơ Ơi Đường Nông Thôn Khu Vực Tân Bình

Ngày 16/5/2024, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Kế hoạch số 98/KH-UBND về cấp nước an toàn khu vực nông thôn trên địa bàn thành phố Cần Thơ giai đoạn 2024 – 2028.

Ngày 16/5/2024, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Kế hoạch số 98/KH-UBND về cấp nước an toàn khu vực nông thôn trên địa bàn thành phố Cần Thơ giai đoạn 2024 – 2028.

Giới thiệu về tình trạng thiếu hụt lao động phổ thông hiện nay.

Lao động phổ thông là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn thấp, thường đảm nhận các công việc đơn giản, không đòi hỏi kỹ thuật cao.

Lao động phổ thông đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Họ là lực lượng lao động chính trong các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, góp phần tạo ra sản phẩm, dịch vụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thách thức trong việc giải quyết thực trạng hiện nay

Công nghệ tự động hóa và trí tuệ nhân tạo đang phát triển với tốc độ chóng mặt, khiến cho việc dự đoán nhu cầu lao động trong tương lai trở nên khó khăn.

Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người lao động phải liên tục cập nhật kiến thức và kỹ năng để thích nghi với sự thay đổi của thị trường lao động.

Để giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động phổ thông, cần có nguồn lực đầu tư lớn cho việc đào tạo, nâng cao kỹ năng và tạo việc làm.

Tuy nhiên, nhiều quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn lực do ngân sách hạn hẹp hoặc do các ưu tiên khác.

Việc giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động phổ thông đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.

Tuy nhiên, trên thực tế, sự hợp tác giữa các bên liên quan thường còn hạn chế, dẫn đến việc triển khai các giải pháp không hiệu quả.

Thế hệ lao động trẻ hiện nay có những kỳ vọng khác nhau về công việc so với các thế hệ trước.

Doanh nghiệp cần thay đổi văn hóa lao động để thu hút và giữ chân lao động trẻ.

Việc thiếu dữ liệu về thị trường lao động khiến cho việc hoạch định chính sách và triển khai các giải pháp trở nên khó khăn.

Cần tăng cường thu thập và phân tích dữ liệu về thị trường lao động để đưa ra những quyết định chính xác.

Ví dụ cho các doanh nghiệp tuyển lao động phổ thông

Công ty cần tuyển dụng 100 công nhân may: Công ty có thể hợp tác với các trường dạy nghề may để tìm kiếm nguồn lao động có tay nghề phù hợp.

Ngoài ra, công ty cũng có thể tổ chức các buổi tuyển dụng trực tiếp tại các xã, huyện để tiếp cận trực tiếp với nguồn lao động tại địa phương. Công ty cũng có thể sử dụng các trang web, mạng xã hội để đăng tin tuyển dụng, thu hút sự quan tâm của người lao động.

Công ty cần tuyển dụng 50 công nhân cơ khí: Công ty có thể hợp tác với các trường nghề cơ khí để tìm kiếm nguồn lao động có tay nghề phù hợp.

Ngoài ra, công ty cũng có thể tổ chức các buổi tuyển dụng trực tiếp tại các xã, huyện để tiếp cận trực tiếp với nguồn lao động tại địa phương. Công ty cũng có thể sử dụng các trang web, mạng xã hội để đăng tin tuyển dụng, thu hút sự quan tâm của người lao động.

Tình trạng thiếu hụt lao động phổ thông là một vấn đề nghiêm trọng cần được giải quyết. Chính phủ và các doanh nghiệp cần có những giải pháp hiệu quả để khắc phục tình trạng này, đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững.

Chiến lược tuyển dụng lao động phổ thông từ các khu vực nông thôn là một giải pháp hiệu quả để khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động phổ thông.

Bằng cách kết hợp các giải pháp đào tạo, nâng cao kỹ năng và tạo việc làm, chúng ta có thể thu hút lao động trẻ từ nông thôn vào lực lượng lao động, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.

Hotline: 1800 28 28 21 – 096 735 77 88

Ngày 31/12/2021, Thành ủy Cần Thơ ban hành Chương trình số 28-CTr/TU về hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn thành phố Cần Thơ giai đoạn 2022 – 2030.

Theo đó, mục tiêu chung là phát triển ngành nông nghiệp thành phố Cần Thơ từng bước hiện đại, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển vùng sản xuất nông nghiệp tập trung gắn kết với chuỗi giá trị và các lĩnh vực hỗ trợ. Phần lớn sản phẩm nông nghiệp được chứng nhận chất lượng, có đăng ký nhãn hiệu, truy xuất được nguồn gốc. Khu vực nông thôn trở thành nơi đáng sống. Thu nhập và đời sống người dân được nâng lên, người dân nông thôn hạnh phúc.

Bên cạnh đó, Chương trình cũng đề ra mục tiêu cụ thể từng giai đoạn như sau:

- Tăng trưởng kinh tế (GRDP) khu vực nông nghiệp - thủy sản bình quân đạt 2,5 - 3%.

- Tỷ trọng khu vực nông nghiệp - thủy sản trong cơ cấu kinh tế 5,6 - 5,9%           - Thu nhập của dân cư nông thôn tăng ít nhất 1,5 lần so với năm 2020           - Tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo đạt trên 55%.

- Xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, nâng chất nông thôn mới theo chuẩn nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.

Đến năm 2025: có 24 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 08 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.

- Tăng trưởng kinh tế (GRDP) khu vực nông nghiệp - thủy sản đạt 2,5 - 3%/năm.

- Tỷ trọng khu vực nông nghiệp - thủy sản trong cơ cấu kinh tế 3,42 - 4%.

- Thu nhập bình quân đầu người của người dân vùng nông thôn cao hơn 3 lần so với năm 2020.

- Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 70%.

- Tập trung xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và nông thôn mới thông minh. Xây dựng môi trường, cảnh quan nông thôn xanh, sạch, đẹp, an toàn, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống; hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường; quốc phòng và an ninh được giữ vững; đưa vùng nông thôn trở thành nơi đáng sống.

Thực trạng lao động phổ thông tại Việt Nam

Theo Tổng cục Thống kê, tính đến năm 2023, lao động phổ thông tại Việt Nam chiếm khoảng 60% tổng lực lượng lao động. Tuy nhiên, số lượng lao động phổ thông có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao còn hạn chế.

Chất lượng lao động phổ thông tại Việt Nam còn nhiều hạn chế. Hầu hết lao động phổ thông chỉ có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, thiếu kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức chuyên môn. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả lao động và năng suất lao động.

Doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, đặc biệt là lao động có tay nghề.

Trình độ chuyên môn thấp: Lao động phổ thông thường có trình độ chuyên môn thấp, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.

Thiếu kỹ năng mềm: Lao động phổ thông thường thiếu các kỹ năng mềm như giao tiếp, team-work, giải quyết vấn đề.

Ý thức lao động kém: Một số lao động phổ thông có ý thức lao động kém, thường xuyên nghỉ việc không phép, làm việc hiệu quả thấp.

Điều kiện làm việc vất vả: Lao động phổ thông thường phải làm việc trong điều kiện vất vả, nguy hiểm, độc hại.

Mức lương thấp: Mức lương của lao động phổ thông thường thấp, không đủ để trang trải cuộc sống.

Phúc lợi xã hội hạn chế: Lao động phổ thông thường không được hưởng đầy đủ các chế độ phúc lợi xã hội như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội.

Doanh nghiệp khó tuyển dụng: Doanh nghiệp khó tuyển dụng được lao động có tay nghề, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp của lao động phổ thông cao.

Cạnh tranh gay gắt: Lao động phổ thông phải cạnh tranh gay gắt với nhau để tìm kiếm việc làm.

Khó khăn trong việc tái hòa nhập thị trường lao động: Sau khi thất nghiệp, lao động phổ thông khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm mới.

Lao động phổ thông có xu hướng di chuyển đến các quốc gia có mức lương cao hơn hoặc có điều kiện sống tốt hơn.

Điều này dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động phổ thông trầm trọng ở một số quốc gia.

Công nghệ tự động hóa và trí tuệ nhân tạo đang thay thế lao động phổ thông trong nhiều ngành nghề.

Điều này dẫn đến tình trạng mất việc làm và thiếu hụt lao động có tay nghề.

Tỷ lệ người già trong dân số ngày càng tăng, trong khi tỷ lệ người trẻ tham gia lực lượng lao động giảm.

Điều này dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động phổ thông.

Lao động phổ thông có xu hướng di chuyển đến các quốc gia có mức lương cao hơn hoặc có điều kiện sống tốt hơn.

Điều này dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động phổ thông ở một số quốc gia.

Chương trình đào tạo của các trường nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.

Điều này dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề.

Lao động phổ thông thường thiếu các kỹ năng mềm như giao tiếp, team-work, giải quyết vấn đề.

Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc và khả năng cạnh tranh của lao động phổ thông.